Skip to main content

Hoa tháng ba

Lang thang tìm về Hoa tháng ba, lại gặp bài viết này

HOA TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN
(st)
Hoa, từ xưa đã được nhiều văn nghệ sĩ chú ý. Đặc biệt, hoa có một sự thu hút mạnh mẽ, là nguồn cảm xúc vô tận cho các nhà thơ. Ở Chế Lan Viên cũng vậy, “Hoa ngày thường”, “Hoa trên đá”, “Hái theo mùa”… là những mảng thơ hay nhất viết về vẻ đẹp của cuộc sống đời thường, viết về hoa.

Ai đó đã nói rằng, nếu đưa một nốt nhạc cho Môza, ông ta sẽ biến nó thành bài sonat; nếu đưa một bông hoa cho Chế Lan Viên, ông sẽ biến nó thành trái tim mình. Và từ trái tim ấy cất lên những tâm tư, trăn trở của cuộc đời. Thật vậy, đọc những bài thơ viết về hoa của Chế Lan Viên, chúng ta sẽ thấy tình cảm mãnh liệt của ông. Nếu là một họa sĩ, qua thơ của Chế Lan Viên, chúng ta có thể vẽ được những bức tranh với nhiều loài hoa, nhiều màu sắc.


Lần giở những trang thơ của Chế Lan Viên, tôi như lạc giữa rừng hoa:

 “Man mác hoa lau trắng
Đường về thăm Nguyễn Du
Ngàn lau từ Nguyễn thấy
Bạc xóa đến bây giờ”
                                    (Hoa lau trắng)

“Hoàng thảo hoa vàng chợt nhớ ra
Ơ xuân lơ đãng bấy lòng ta
Câu thơ tháng chạp mình chưa viết
Mà đó hoa vàng xuân tháng ba”
                                    (Hoàng thảo hoa vàng)

“Tháng ba nở trắng hoa xoan
Sáng ra mặt đất lan tràn mùi hương
Không em, anh chẳng qua vườn
Sợ mùi hương… sợ mùi hương nhắc mình”
                                    (Hoa tháng ba)

            Những loài hoa xinh xắn như: hoa lau, hoa hoàng thảo, hoa xoan, hoa sữa, hoa gạo, hoa mai, hoa súng, hoa đào,… hiện lên trong những bài thơ tứ tuyệt thật bình dị mà cũng thật kiêu sa. Những bài- thơ- hoa của Chế Lan Viên như những nốt nhạc trầm lắng giữa cuộc đời.

            Có người cho rằng thơ viết về hoa là mơ mộng, yếu đuối, thiếu chất “thép”. Nhưng chất “thép” đâu có nghĩa là ồn ào, là hô khầu hiệu trong thơ. Thơ trước hết phải là cuộc sống. Nhà thơ cộng sản Chế Lan Viên đã yêu cuộc sống đến cùng. Chính những sắc hoa, màu cỏ của cuộc sống đã in sâu vào trái tim ông, tạo ra những vần thơ giàu chất “thép”.

            Thơ Chế Lan Viên là thơ nghiêng về tư duy, thơ giàu suy tưởng. Chế Lan Viên thường mượn hoa để triết lý về cuộc đời:

“Màu hoa súng ấy như cơn đau không dám khóc
Chỉ lặng im sắc tím để mà đau
Người ta chỉ biết màu sen anh đỏ rực
Còn nỗi buồn hoa súng tím, biết cho đâu?”
                                                (Hoa súng)

Hoa, đôi khi là cái cớ để nhà thơ biểu lộ tình cảm với nhân dân:

“Mùa xuân dẫu có về qua đấy
Cỏ nào mọc được trước rào gai
Mười dặm xóm làng xe ủi sạch
Nói chi vườn mẹ nhành mai”
                                    (Vẫn cành mai ấy)

Cũng có khi nhà thơ mượn hoa để suy tưởng về tình yêu:

“Anh tặng em chùm hoa sắc trắng
Nhưng khi yêu, anh yêu đỏ hoa hồng…”
                                    (Hoa trắng đỏ)

Hoa còn là chất xúc tác làm tăng thêm vẻ thi vị của cuộc đời

“Đêm hôm qua xuân nói những gì?
Mà sáng nay hoa hồng đều chớm nở
Những cành đào mở môi trong gió
Cúc ngã tròn bên lối nhỏ xuân đi”
                                    (Ý nghĩ mùa xuân)

Nỗi ám ảnh về thời gian là nỗi ám ảnh muôn đời của người nghệ sĩ, của mỗi nhà thơ. Hoa trong thơ Chế Lan Viên cũng nói lên điều đó

 “Lòng rất là vô lý
Mừng hoa sữa vào thu
Lại ti ếc hè quá vội
Chưa kịp hái sen hồ”
                        (Thời gian không đợi)

Hay:

“Thời gian trôi lặng thinh
Mà tháng ngày chảy hết
Xuân qua, mình chẳng biết
Hoa gạo đỏ thình lình”
                                                            (Hoa gạo son)

Mùa hè, hoa gạo nở từng bông đỏ ối như những đốm lửa. Màu đỏ của hoa gạo là tín hiệu của thời gian, báo cho chúng ta biết những ngày xuân vui chơi đã hết: “Xuân qua, mình chẳng biết/ Hoa gạo đỏ thình lình”. Hai chữ “thình lình” như chỉ sự ngỡ ngàng, hốt hoảng của nhà thơ khi chợt nhận thấy thời gian trôi nhanh.

Hoa trong thơ Chế Lan Viên mang nhiều ý nghĩa sâu sắc mà bình dị, là những “biểu hiện xanh tươi của cuộc sống”. Cái “biểu hiện xanh tươi” ấy, cho đến lúc sắp mất đi, nhà thơ vẫn còn luyến ti ếc:

“Thôi cho ta khỏi đếm những mùa hoa một
Ta có còn nó đâu?
Không phải hoa khuất mà ta khuất
Ta đi vào xứ không màu”

Cho đến bây giờ, nhà thơ Chế Lan Viên đã đi vào “xứ không màu” hơn 15 năm. Giờ đây, đọc những trang thơ viết về hoa của ông, tôi vẫn ngỡ ông vẫn còn đâu đó, vẫn đang “đếm những mùa hoa”.

                                                                                                                                           Thanh Bình

Comments

Popular posts from this blog

Các khu vực văn hóa phương đông từ góc nhìn khu vực học

Là một khu vực văn hoá thống nhất, rộng lớn, phân chia văn hoá phương Đông ra thành các khu vực nhỏ hơn là một việc làm không hề đơn giản. Khó có một “nhát cắt” thật rạch ròi giữa các khu vực hay các vùng văn hoá. Điều này cũng dễ hiểu bởi lẽvăn hoá các khu vực luôn có sựtác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Do vậy, sựphân chia văn hoá phương Đông thành các khu vực văn hoá dựa trên lãnh thổ địa lí cũng chỉ có ý nghĩa tương đối mà thôi. Với một quan niệm nhưvậy, từgóc nhìn khu vực học, chúng ta có thể tạm thời phân chia văn hoá phương Đông thành 6 khu vực dưới đây:  1.  Đông Bắc Á    2.  Đông Nam Á    3.  Nam Á   4. Trung Á  5. Bắc Á    6. Tây Á - Bắc Phi http://www.worldatlas.com/webimage/countrys/asia/asiaall.htm 1. KHU VỰC ĐÔNG BẮC Á  Có người gọi khu vực này là Đông Á. Đây là khu vực của các nền văn hoá Trung Hoa, Nhật Bản, Korea, trong đó văn hoá Trung Hoa là trung tâm. Văn hoá Nhật và văn hoá Korea chị...

Những đặc trưng cơ bản của thể chế chính trị thế giới đương đại - Thể chế cộng hoà

Phần 1: Thể chế quân chủ Thể chế chính trị cộng hoà Thể chế chính trị cộng hoà là thể chế, xét về bản chất, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, ,chính quyền do nhân dân bầu ra. Song trên thực tế, ở các nước tư bản chủ nghĩa, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc "tam quyền phân lập" và tất cả quyền lực thuộc về các tập đoàn tư bản. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, thể chế cộng hoà có ba loại: cộng hoà tổng thống, cộng hoà đại nghị và cộng hoà lưỡng tính. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, thể chế chính trị được tổ chức theo mô hình cộng hoà Xô Viết như Liên Xô trước đây. 2.1 Thể chế cộng hoà tổng thống Điển hình cho thể chế cộng hoà tổng thống là thể chế chính trị ở Mỹ, các nước Mỹ Latinh, Liên bang Nga... Đặc trưng tiêu biểu của thể chế này là: - Quyền lực nhà nước tập trung vào Tổng thống do dân bầu ra. - Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu cơ quan hành pháp, nắm trọn quyền hành pháp. Tổng thống tự thành lập Chính phủ, các thành vi...

Bản sắc văn hóa phương Tây

Để tìm hiểu văn hóa Mỹ, không thể không nắm những nét chung của văn hóa phương Tây, một nền văn hóa được đánh dấu bởi lối sống, tình cảm, tư duy, các sáng tác… của người Tây Âu – Bắc Mỹ nói chung. Văn hóa phương Tây có ba yếu tố: chủ nghĩa nhân văn cổ Hy Lạp – La Mã, yếu tố Do Thái – Ki tô giáo, chủ nghĩa duy lý và khoa học. 1. Chủ nghĩa nhân văn cổ Hy Lạp – La Mã Theo trình tự thời gian, chủ nghĩa nhân văn cổ Hy Lạp xuất hiện đàu tiên. Nhà vthơ anh Shelly đã viết: “Tất cả chúng ta đều là người Hy Lạp; luật pháp, tôn giáo, nghệ thuật của chúng ta đều bắt nguồn từ Hy Lạp”. Nhận định này có phần cường điệu, nhưng cũng phải công nhận là “Người Hy Lạp đã sáng tạo ra tất cả những lý tưởngn hân bản mà chúng ta thường coi là đặc trưng cho phương Tây.” (F.Mc Nall và Phillip Lee Ralph – Những nền văn minh thế giới Norton and Company, New York 1968) tự do, lạc quan, chú trọng đến hạnh phúc con người ở trần thế, đề cao lý tính, văn hóa, tôn trọng cả thân thể lẫn tinh thần, tôn trọn...